Theo đề xuất của Transerco, dự kiến giai đoạn 2020-2025, Hà Nội tiếp tục điều chỉnh lộ trình 52 tuyến xe buýt để hợp lý hóa mạng lưới và mở rộng vùng phục vụ. Trong đó, có 15 tuyến điều chỉnh để giảm trùng tuyến và tăng kết nối tại các nhà ga khi các tuyến đường sắt đô thị hoạt động. Điều chỉnh tần suất dịch vụ cho 23 tuyến buýt hiện có, tăng cường kết nối và nâng cao chất lượng dịch vụ.
Cũng trong giai đoạn 2020 - 2025, dự kiến mở mới 90 - 100 tuyến xe buýt, trong đó có 10 tuyến buýt phục vụ học sinh, sinh viên, công nhân…, nâng tổng số tuyến đến năm 2025 lên 220 - 230 tuyến.
Cụ thể, riêng năm 2020 đã mở mới 17 tuyến buýt, nâng tổng số tuyến buýt hiện có lên 143 tuyến. Dự kiến năm 2021 mở mới từ 30 đến 35 tuyến, các năm tiếp theo mỗi năm mở mới khoảng 9-10 tuyến/năm.
Số phương tiện phát triển mới trong giai đoạn này từ 1.600 đến 1.800 xe, nâng tổng số phương tiện hoạt động buýt lên 3.400-3.800 xe. Sản lượng hành khách vận chuyển bằng xe buýt, gồm buýt thường và BRT đạt từ 16% đến 18% tổng nhu cầu đi lại của toàn thành phố. Kinh phí trợ giá bình quân hằng năm trong giai đoạn 2020-2025 vào khoảng 2.500-3.000 tỷ đồng/năm.
Trong giai đoạn 2026-2030, tổng số tuyến mở mới dự kiến từ 60 đến 70 tuyến, tương đương 12-14 tuyến/năm, nâng tổng số tuyến buýt toàn thành phố lên 280-300 tuyến. Số phương tiện phát triển mới đạt 1.500-1.700 xe, tổng số đoàn phương tiện hoạt động buýt đạt từ 5.000-5.300 xe. Sản lượng hành khách vận chuyển bằng xe buýt đạt từ 22% đến 25% tổng nhu cầu đi lại của toàn thành phố. Kinh phí trợ giá bình quân hằng năm giai đoạn 2026-2030 vào khoảng 4.000-5.000 tỷ đồng/năm.
Theo Transerco, để bảo đảm việc phát triển luồng tuyến, đoàn phương tiện theo kế hoạch trong đề án thì việc dành hạ tầng phục vụ xe buýt là yếu tố song hành, điều kiện tiên quyết cho xe buýt vận hành được lưu thoát và phát triển được thêm luồng tuyến, phương tiện mới để thu hút người dân sử dụng dịch vụ xe buýt. Trong đó, giai đoạn 2020-2025, số tuyến đường có bố trí làn ưu tiên cho xe buýt được phát triển mới là 13 làn với tổng số ki lô mét đường ưu tiên là 60,8km; xây dựng và hình thành 7 điểm trung chuyển cho xe buýt, trong đó có 2 điểm trong nội đô để kết nối với các tuyến đường sắt đô thị (Cầu Giấy và Hào Nam) và 6 điểm ngoài Vành đai 3 và 3,5; phát triển thêm từ 1.500 đến 2.000 điểm dừng và 30 - 40 điểm đầu cuối phục vụ các tuyến mở mới và hợp lý hóa lộ trình.
Giai đoạn 2026-2030, số tuyến đường có bố trí làn ưu tiên cho xe buýt được phát triển mới là 8 tuyến, nâng tổng số tuyến đường có làn ưu tiên cho xe buýt lên 21 với tổng số ki lô mét đường ưu tiên đạt trên 250km; xây dựng và hình thành 8 điểm trung chuyển cho xe buýt tại các trục giao thông cửa ngõ Thủ đô, ở các khu vực ngoài Vành đai 3,5; phát triển thêm từ 1.200 đến 1.300 điểm dừng và 20 - 30 điểm đầu cuối phục vụ các tuyến mở mới
Ông Nguyễn Thanh Nam - Tổng Giám đốc Transerco cho biết: “Để bảo đảm việc phát triển luồng tuyến, đoàn phương tiện theo kế hoạch trong đề án thì việc dành hạ tầng phục vụ xe buýt là yếu tố song hành, điều kiện tiên quyết cho xe buýt vận hành được lưu thoát và phát triển được thêm luồng tuyến, phương tiện mới để thu hút người dân sử dụng dịch vụ xe buýt.”