Tại Phiên họp, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan cho biết, phạm vi, đối tượng của Đề án được xây dựng trên cơ sở kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước về an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước, các nghiên cứu quy hoạch thuỷ lợi, phòng, chống lũ, tài nguyên nước...
Bố cục của Đề án có các nội dung lớn liên quan đến: Sự cần thiết, cơ sở pháp lý; an ninh nguồn nước và các vấn đề đặt ra; quan điểm, mục tiêu và giải pháp thực hiện; đánh giá tác động của Đề án; tổ chức thực hiện; kết luận và kiến nghị…
Đề án khẳng định quan điểm: An ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển nhanh và bền vững đất nước, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, cải thiện môi trường, ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh. Bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước là yêu cầu tất yếu khách quan, là trách nhiệm và nghĩa vụ của cả hệ thống chính trị và toàn dân…
Mục tiêu chung được Đề án xác định là bảo đảm số lượng, chất lượng nước cấp cho sinh hoạt trong mọi tình huống; đáp ứng nhu cầu nước cho sản xuất và các ngành kinh tế quan trọng, thiết yếu; giảm phụ thuộc vào các nguồn nước từ bên ngoài lãnh thổ.
Ứng phó hiệu quả với các loại hình thiên tai liên quan đến nước, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, bảo đảm sức khoẻ, đời sống, sản xuất của người dân.
Bảo đảm an toàn tuyệt đối đập, hồ chứa nước quan trọng; chủ động ứng phó khi có sự cố, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; chủ động tích, trữ, điều hòa nguồn nước.
Từ mục tiêu chung, các mục tiêu cụ thể đến năm 2030 được Đề án xác định là: Đảm bảo cân đối đủ nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ và các ngành kinh tế quan trọng; đầu tư xây dựng các hồ chứa nước lớn, hệ thống chuyển nước liên vùng; hoàn thành sửa chữa, nâng cấp các hồ chứa nước hư hỏng, xuống cấp, thiếu năng lực phòng, chống lũ; 100% dân cư thành thị, 65% dân số nông thôn, 100% các đảo có đông dân cư được cấp nước sạch đạt quy chuẩn; 30% diện tích cây trồng được thực hiện phương thức canh tác tiên tiến và tưới tiết kiệm nước; 50% tổng lượng nước thải sinh hoạt đô thị được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường;…
Đến năm 2045, hoàn thành xây dựng các công trình lớn điều tiết mặn, ngọt, dâng nước, trữ nước trên các hệ thống sông, hoàn thành xây dựng các hồ chứa nước lớn. Hình thành mạng lưới liên kết, chuyển nước vùng, quốc gia; 100% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn; 70% diện tích cây trồng được thực hiện phương thức canh tác tiên tiến và tưới tiết kiệm nước; cơ bản 100% các nguồn nước bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt được xử lý, phục hồi; 100% các cơ sở khai thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước trên phạm vi cả nước được kiểm soát, áp dụng công nghệ tiên tiến, tiết kiệm nước;…
Thẩm tra Đề án, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy khẳng định, Thường trực Ủy ban tán thành với sự cầnthiết xây dựng Đề án như trong Tờ trình của Chính phủ, đồng thời cho rằng, việc xây dựng Đề án là hết sức cấp bách bởi an ninh nước là vấn đề mang tính toàn cầu, được nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế hết sức quan tâm. Việt Nam đang đứng trước nguy cơ thiếu nước do yếu tố tự nhiên, trước áp lực gia tăng dân số, thách thức của quá trình đô thị hóa và tác động của biến đổi khí hậu. Hơn nữa, bảo đảm an ninh nước cũng đang đặt ra nhiều vấn đề đối với các vùng ven biển của đất nước ta.
Thường trực Ủy ban đánh giá cao sự khẩn trương, nghiêm túc của Chính phủ trong việc chuẩn bị hồ sơ Đề án theo Nghị quyết của Quốc hội. Đề án đã thể chế hóa chủ trương của Đảng, thực hiện các nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ. Vì vậy, Thường trực Ủy ban thống nhất về cơ sở chính trị và pháp lý để xây dựng Đề án như trong Tờ trình của Chính phủ.
Về nội dung cơ bản của Đề án, Ủy ban đề nghị Chính phủ bổ sung một số kết quả chủ yếu của việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước.
Về mục tiêu của Đề án, Thường trực Ủy ban cho rằng, mục tiêu của Đề án cần quan tâm cụ thể hóa quan điểm của Đề án về an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước; giải quyết được các thách thức, tồn tại, bất cập và vướng mắc trong bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước của đất nước trước mắt và dài hạn; lượng hóa được để đánh giá, giám sát theo tiếp cận quốc tế; bảo đảm tính khả thi về nguồn lực và tổ chức thực hiện;...
“Thường trực Ủy ban nhận thấy, Đề án được chuẩn bị tương đối công phu, đã thể chế chủ trương, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; việc soạn thảo, xin ý kiến, tiếp thu hoàn thiện Đề án đã bám sát và thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật. Đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép trình Quốc hội xem xét Đề án và thông qua Nghị quyết tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV”, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy phát biểu./.